Giới
thiệu giáo
trình
Tác
giả
Kiểm
tra đầu vào
Phần
1. Các bước triển khai
một đề tài nghiên cứu khoa học
Phần
2. Phương pháp
tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học
Phần
3. Khai thác
thông tin từ tài liệu khoa học
Phần
4. Phương
pháp viết tài liệu khoa học
Phần
5. Kĩ thuật soạn thảo
tài liệu khoa học
Kiểm
tra đầu ra
Phản
hồi kết quả
Thư mục |
Phần
5. Kĩ thuật soạn thảo tài liệu khoa học
Quy tắc nhập liệu
Thuật ngữ và tên riêng tiếng nước ngoài
Viết tên riêng
Trên cơ sở các quan điểm nói
trên, việc viết tên riêng trong tài liệu khoa
học cần tôn trọng tối đa tên gọi nguyên ngữ.
- Tên riêng đã Việt hoá từ
lâu, trở thành thói quen: chấp nhận như tên
gọi tiếng Việt bình thường, nhưng những tên gọi
không phổ biến thì không dùng nữa.
- Ví dụ: vẫn dùng Pháp, Anh, Luân Đôn, Hoa Kì, Ba Lan,...; nhưng không dùng Hoa Thịnh Đốn (Washington), Mạc Tư Khoa (Moskova), Gia Nã Đại (Canada), Á Căn Đình (Argentina), Phi Luật Tân (Philippines)...
- Tên riêng gốc Hán: phiên âm theo cách đọc Hán Việt.
- Ví dụ: Chu Dung Cơ, Bắc Kinh, Thượng Hải, Tô Châu, Nhật Bản, Đài Bắc... (không viết Zhu Rongji, Beijing, Shanghai, Suzhou, Japan, Taipei,...)
- Tên riêng ngữ hệ Latin: giữ nguyên
cách viết nguyên ngữ trong khả năng trình
bày của bảng chữ cái Việt (bao gồm 26 chữ cái
Latin từ A đến Z và các chữ cái có dấu
tiếng Việt). Cách đọc cũng giữ được càng gần nguyên ngữ càng tốt.
- Ví dụ: Alexandre de Rhodes, Leonard da Vinci, Napoléon, Paris, Berlin, Santiago, Antoine de Saint-Exupéry,... (không viết A-lê-xan-đơ
Đờ Rốt, Lê-ô-na Đa Vanh-xi, Na-pô-lê-ông,
Pa-ri, Béc-lanh, Xantiagô, Ăngtoan Đơ Xanh -
Êxuypêry,...)
- Tên riêng không thuộc ngữ hệ
Latin: giữ nguyên cách viết đã Latin hoá
theo quy cách quốc tế, nên dùng tên và
danh pháp bằng nguyên ngữ, cách được Tổ chức Địa
danh của Liên hợp quốc
(UNGEGN) khuyến khích (kể cả đối với tên riêng
dân tộc thiểu số trong nước) .
- Ví dụ: Dhaka, Dakar, Praha, Wien, Lisboa, Moskva,... (không viết Đaca hay Đa-Ka, Pơ-ra-ha, Viên, Li-xbơn, Mát-xcơ-va,...; viết tên cũ trong ngoặc đơn và hướng tới loại bỏ hẳn khỏi văn bản: Prague, Vienna, Lisbon, Moscow,…)
Viết thuật ngữ tiếng nước ngoài
Với các thuật ngữ tiếng nước ngoài, cần
linh động sử dụng các quy tắc phiên chuyển sao cho
càng gần với nguyên ngữ càng tốt, không
gây xáo trộn nghiêm trọng cấu trúc tiếng Việt
đồng thời có một sự linh động nhất định giúp tiếng Việt
có khả năng phát triển phù hợp với sự phát
triển của khoa học, công nghệ và đời sống xã hội.
- Thuật ngữ đã Việt hoá từ lâu,
trở thành thói quen thông dụng: chấp nhận như từ
ngữ đã nhập nội vào tiếng Việt.
- Ví dụ: mét, lít, cà phê,... (không viết met, lit, café,...).
- Thuật ngữ gốc Hán: phiên âm theo cách đọc Hán Việt.
- Thuật ngữ tiếng nước ngoài (khác tiếng Hán):
- chấp nhận các phụ âm hay tổ hợp phụ âm đầu không có trong tiếng Việt như bl, chr, cl, cr, f, j, str, w, z,... (ví dụ: blu, chrom, clinker, cravat, festival, formol, jazz, javel, joule, watt, wolfram, zero, ziczac,...);
- chấp nhận các phụ âm hay tổ hợp phụ
âm cuối không có trong tiếng Việt như b, d, f, g, j,
l, r, s, v, w, z,... (ví dụ: amib, protid, sulfur, glycogen, glucoz,...);
- tôn trọng tính hệ thống giữa các thuật ngữ (ví dụ: fluor, fluorur; sulfur, sulfuric, sulfat; chlor, chlorat, chlorur; phosphat, phosphor, phosphorit;...);
- không phiên các âm
tiết tiếng nước ngoài thành các âm tiết
tiếng Việt có cách phát âm gần
giống: c- thành x-, -c thành -t, d thành đ-,
g- thành gi-, s- thành x-, f- thành ph-, -l
thành -n, -s thành -t, -ur thành -ua, -y-
thành -i-, thêm các dấu thanh,... (viết acid carbonic, centimet, decalit, decibel, gen, sigma, virus, chlorur, oxygen, carbonic,...; không viết axít
cácbônít, xentimét, đêcalít,
đêxiben, gien, xíchma, virút, clorua, ôxigien,...);
- các thuật ngữ viết tắt có
tính phổ biến quốc tế thì chấp nhận như nguyên ngữ,
ưu tiên theo loại ngôn ngữ nào sử dụng thuật ngữ
đó phổ biến hơn, nhưng phát âm theo tiếng Việt:
- viết DNA, đọc /đê en a/; viết PCR, đọc
/pê xê e(r)/; viết Internet, đọc /in te(r) nét/;
viết Linux, đọc /li nút(x)/; viết WTO, đọc /vê kép
tê ô/; viết AIDS, đọc /ét(x)/; viết USB, đọc /u
ét(x) bê/;...
- không viết ADN (tiếng Pháp),
không đọc /đi en ây/; không đọc /pi xi a(r)/;
không viết Intơnet; không viết Linút, không
đọc /lai nớt(x)/; không viết OMC (tiếng Pháp), không
đọc /đấp liu ti âu/; không viết SIDA (tiếng Pháp);
không đọc /diu ét(x) bi/;...
Các thuật ngữ tiếng nước ngoài đã
nhập nội sau khi phiên chuyển một cách phù hợp
(dù có khi giống hoàn toàn với nguyên
ngữ) thì viết bình thường trong bản văn. Riêng
các thuật ngữ tiếng Latin, thuật ngữ (không phải tên riêng hay chữ viết tắt) nguyên gốc tiếng nước ngoài chưa qua phiên chuyển thì phải viết in nghiêng (trong trường hợp bản văn đang in nghiêng thì thuật ngữ này được viết đứng).
- Tiếng Latin: et al., op. cit., P.S., sic,...
- Tên khoa học các chi và loài sinh vật: Skeletonema costatum, Phaseolus polystachios (L.) Britton et al., Vigna unguiculata subsp. cylindrica (L.) Verdc., Pseudo-nitzschia spp., Thalassiosira sp.,...
- Tên các gen (nhưng tên protein tương ứng viết thường): protein HSP (heat shock protein) - gen hsp18; sắc tố phytochrom - các gen PHYA, PHYB, PHYC, PHYD và PHYE;...
- Tiếng nước ngoài chưa qua phiên chuyển
(không áp dụng với tên riêng hay chữ viết
tắt): viết e-mail, website, e-learning,... nhưng không viết DNA, SARS, PCR, PGR,...
Với các thuật ngữ và khái niệm mới, chưa được biết hoặc thừa nhận rộng rãi, hoặc có thể gây khó hiểu cho người đọc, thì ở lần đầu tiên xuất hiện trong bản văn cần chú thích nguyên ngữ trong ngoặc đơn, bằng chữ in nghiêng theo quy định. Lưu ý:
trong luận văn không chú thích quá nhiều
khái niệm, thuật ngữ đã phổ biến trong chuyên
ngành.
- Ví dụ: "Diễn ngữ (paraphrase)
là cách diễn
đạt lại các ý tưởng của một
tác giả khác bằng ngôn ngữ riêng
của mình. Bằng diễn ngữ, nhà nghiên cứu
có
thể trình bày một vấn đề, một ý kiến
khoa học của
tác giả khác mà không cần
phải trích
dẫn nguyên văn, không dùng lại từng
câu từng
chữ như chính tác giả gốc đã
dùng, nhưng
vẫn đảm bảo trung
thành với nội
dung nguyên bản."
Bài tập tự kiểm tra
|